* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT VÌ SÔNG NÚI - SẼ SỐNG MUÔN ĐỜI VỚI NÚI SÔNG. ________________________________________ ( trích... " Ngọn Lửa Tình Người " - thơ trúc thanh tâm )
Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2016
* CHÚT VUI BUỒN LÃNG MẠN CÙNG NGUYỄN TRUNG NGUYÊN - bài viết Vĩnh Thông ( An Giang )
CHÚT VUI BUỒN LÃNG MẠN
CÙNG NGUYỄN TRUNG NGUYÊN
Đôi khi làm những cuộc viễn trình ruổi rong giữa mấy ngả thương hồ văn chương đồng bằng, chợt đọc những vần thơ rặc miệt vườn, chưa bàn đến nội dung tư tưởng hay bút pháp nghệ thuật chi đó cao siêu, trước hết những sợi dây giao cảm vô hình cũng đã vô tình được nối kết, để những người đồng bưng khề khà chung rượu tương giao. Thơ, dĩ nhiên cũng là một hệ thống lý luận, nên không thể chỉ bằng vài rung động cá nhân có thể đánh giá khách quan. Song, cũng không thể phủ nhận có những vần thơ dễ đi vào và nằm sâu trong lòng người nhờ cảm tính hơn lý tính, nhờ “đồng thinh tương ứng” hơn phân tích chi ly.
Thế nên không lấy làm lạ khi Nguyễn Trung Nguyên - người nghệ sĩ Cần Thơ, với thi tập “Chút lãng mạn đồng bằng” đã bắt nhịp cùng tôi trong trạng thái nói trên. Chưa vội vàng lý luận sâu xa, chỉ đọc và để thơ chảy vào lòng mình một cách tự nhiên. Tôi gọi Nguyễn Trung Nguyên là nghệ sĩ thay vì nhà thơ, bởi anh không chỉ sáng tác văn thơ mà còn cả âm nhạc và vọng cổ, thể loại nào cũng khá tài hoa và gặt hái những thành tích đáng nể.
Có hai điều tôi đặc biệt quan tâm ở tập thơ nầy, mạn phép tự đặt tên là mảng “chút vui” và mảng “chút buồn”. Nhưng vui hay buồn lại không mang nghĩa đơn thuần vốn có của từ ngữ. Có cái vui tinh nghịch, cái vui trầm lắng, có cái buồn xa xăm, cái buồn bỡn cợt, vui buồn đan cài vào nhau tinh tế trong cả tập thơ và trong từng bài thơ riêng biệt. Nó làm độc giả không khỏi thích thú trước những tâm tư mà chàng nghệ sĩ Cần Thơ nầy đã gửi gắm.
“Dựa lưng vào tháp / Ngửa mặt nhìn trời / Một ngàn năm trước / Vẫn là mây trôi”. Có một cảm giác ung dung tự tại hồ như một áng mây vừa trôi bềnh bồng trên tóc người du sĩ. Vậy thì nó đang tĩnh hay động? Hỏi làm gì, Bùi Giáng chẳng phải đã dặn đó sao: “Thưa rằng nói nữa là sai / Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào”. Thôi thì thì ta thử bước vào “mùa xuân” của thơ ca Nguyễn Trung Nguyên xem sao!
Ở mảng “chút vui” điều dễ thấy nhứt là nhà thơ có óc khôi hài, và rất duyên. Đọc “Bài hành tuổi bốn mươi” đến đoạn viết về cái giận của người vợ khi chọn phải ông chồng nghệ sĩ rằng: “Vợ đôi khi buồn ngồi nhắc / Ngày xưa - giá mà ngày xưa / Ta biết rằng nàng giận lắm / Tơ ông lão ấy cột bừa” thì người đọc khó có thể giận hay buồn mà chỉ biết mỉm cười khúc khích trước sự dí dỏm của “đức ông chồng” kia. Những tưởng biết tiếc vì đã phí bốn mươi năm thơ phú lôi thôi thì sẽ biết “quay đầu là bờ” nhưng thực tế thi sĩ lại vừa giả định vừa khẳng định: “Kiếp sau trời cho chọn lựa / Chắc cũng y như kiếp rồi”.
Vừa rời phòng phẫu thuật mắt, thơ vẫn có thể tuôn ra, mà lại là thơ trêu chọc bác sĩ đã phẫu thuật cho mình. Trêu chọc người hóa ra mình cũng chung hoàn cảnh, kiểu nầy thì dù mệt mỏi với công việc đến đâu, người bác sĩ kia cũng không thể không phì cười:
“Anh mổ mắt giỏi - mổ trái tim đàn bà dở ẹc
Nên giờ đây cơm bụi một mình
Cái tật của tôi là chúa ăn nói linh tinh
Nên từ nhỏ đã là người chiến bại
Bài thơ đầu đời tặng cô bạn gái
Chẳng biết đọc hay chưa mà vội vã theo chồng”
(Thơ viết từ phòng mổ)
Không chỉ có cái vui tếu táo đó, ta còn gặp cái vui hào sảng đậm đà phong vị ruộng đồng sông nước. Không hồ hỡi hay vội vàng, bất chợt, mà cái vui ý vị, nhẹ nhàng nhưng sảng khoái, tự tin. Niềm vui đó dường như có mặt mọi lúc trong đời sống người nông dân. Họ lam lũ mà vẫn vui, bởi không màng danh lợi, không chấp hơn thua, chỉ mình với chiếc xuồng con thong dong sóng nước:
“Chiều nay ra đứng nhìn mây nước
Lũ vẫn mênh mông cuối tháng Mười
Dang tay đưa lưới xuôi dòng nước
Chợt muốn cười khà một tiếng chơi”.
(Kéo lưới trên đồng)
Cái “cười khà” rất “đã” mà không phải ai cũng có được, bởi còn đó ngoài kia nhân thế tranh đua. Hạ một câu kết bất ngờ “lật ngửa ván bài” cả ba câu trên, là tài của Nguyễn Trung Nguyên mà người đọc sẽ bắt gặp nhiều lần trong tập thơ.
Nhưng, đâu phải chỉ có vui. Tác giả đã thổ lộ “Người đồng bằng hạnh phúc cũng nhiêu khê” nên trong tập thơ cũng có rất nhiều tác phẩm khiến người đọc xót xa, trăn trở. Ở mảng “chút buồn” nầy, không thể bỏ qua những bài thơ viết về sự cố sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ năm 2007, trên chính mảnh đất mà tác giả đang sống. Thơ rất bình dị, nhưng có lẽ cũng đủ độ “thấm” cho người đọc:
“Có đứa bé lên ba, tiếng bập bẹ chưa tròn
Chẳng biết vì sao mẹ mình khóc ngất
Hồi tối cha chơi trò cút bắt
Đã nghỉ từ lâu sao mãi chưa về?
Tác giả đã dẫn dắt khéo léo trước, thay vì đề cập thẳng đến sự việc. Và cũng hạnh phúc thay, sau vần thơ đớn đau kia còn biết bao niềm động viên lớn, đó là những: “Bác lái đò tải thương, cô sinh viên hiến máu / Xin nhận hết những tấm lòng thơm thảo / Nhịp cầu vô hình nối những bàn tay” (Nỗi đau trên nhịp cầu thế kỷ). Thật đẹp tình người, tình đất Cửu Long!
Bằng một mẩu chuyện nhỏ bình thường giữa một ngày mưa nơi xứ người phồn hoa, có người đàn ông đã rơi nước mắt thật khi nghĩ đến vợ con mình và mái nhà mưa dột. Không tô vẽ, không văn hoa, nhưng người đọc cũng không thể không tin rằng đây là cảm xúc rất thật của tác giả:
“Mưa Sài Gòn chợt nhớ con ta
Nhắc cha mưa dột ướt mái nhà
Sài Gòn bụi bặm mờ con mắt
Mưa chưa rơi mà nước mắt ra”
(Mưa Sài Gòn)
Hay như người anh trai vốn là nông dân ít chữ nghĩa, vậy mà: “Có dăm con cá bự / Đem về biếu cha già / Cọc cạch xe đạp cũ / Nắng cháy đường xa xa” cũng làm tác giả nghẹn lòng, bởi nhìn lại mình thì: “Ta mòn tay thơ phú / Nắn không tới lưng trần / Về thăm cha tay trắng / Nhìn anh mà rưng rưng” (Về nhà xưa uống rượu).
Chút buồn của Nguyễn Trung Nguyên, dù dụng công hay không, tác giả vẫn không thể (hay không muốn) son phấn cho nó. Nó vẫn mãi là chút buồn chơn chất của người đồng bằng, buồn thì nói là buồn, nói thẳng, nói thật, không vòng vo, không hoa mỹ - như nhà thơ Vũ Hồng từng viết “say thì say trọn, buồn thì buồn sâu”. Có ngôn từ, hình ảnh, thủ pháp nào đặc biệt đâu ở đoạn thơ nầy: “Cha mẹ sinh ra trai ruộng - gái đồng / Con sinh ra lại xa đồng - xa ruộng / Quãng đường cách xa thật ra chẳng mấy / Vậy mà biết bao lâu chưa về” (Điều muốn nói với con) nhưng người đồng bằng đọc lên ai không khỏi xót xa?
Thơ của Nguyễn Trung Nguyên thiên về thuật sự, lại là thuật sự một cách rất thật tình. Đây là ưu điểm, nhưng cũng có khi là hạn chế. Bởi, điều đó có thể dẫn đến thơ bị nghiêng về tâm tình hơi quá tự nhiên, kể lể lấn át dụng công nghệ thuật, sự thiếu tiết chế cần thiết có thể làm cho thơ mất đi ít nhiều tính hàm súc. Song, vẫn không thể phủ nhận sự tinh tế trong lối kể, cách dùng từ của tác giả. Và cuối cùng thì dẫu buồn hay vui Nguyễn Trung Nguyên vẫn là nhà thơ, vẫn ý thức trách nhiệm của mình trước ngòi bút. Vì là “người trong cuộc”, nên trước ai hết, người làm thơ hiểu rằng:
“Đôi khi ngôn ngữ thành bất lực
Trước sự vô tâm đến lạnh lùng”
(Bạn cho chữ)
May mắn là dù ý thức được sự bất lực đó, người làm thơ vẫn tin tưởng với thơ - với đời bằng một cách nhìn lạc quan, làm ta loáng thoáng thấy đâu đó hình ảnh những ẩn sĩ “ta dại ta tìm nơi vắng vẻ”. Xin mượn một khổ thơ trong “Bài hành tuổi năm mươi” (xem như một “tuyên ngôn” của Nguyễn Trung Nguyên - mà tôi cũng rất thích) để làm cái kết cho bài cảm viết nầy:
“Cao sang không bằng họ
Thanh thản ai bằng ta
Ý trời xưa nay định
Cứ trồng sẽ ra hoa”.
Sài Gòn đông 2015
VĨNH THÔNG
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét